Scholar Hub/Chủ đề/#phóng xạ/
Phóng xạ là quá trình phát ra các hạt alpha, beta hoặc gamma từ nhân tử vật chất. Sự phóng xạ xảy ra khi nhân tử phóng xạ phân rã hay phản ứng hạt nhân. Việc nà...
Phóng xạ là quá trình phát ra các hạt alpha, beta hoặc gamma từ nhân tử vật chất. Sự phóng xạ xảy ra khi nhân tử phóng xạ phân rã hay phản ứng hạt nhân. Việc này có thể xảy ra tự nhiên hoặc được tạo ra bởi con người thông qua các quá trình như phóng xạ hạt nhân trong ngành công nghiệp hạt nhân. Các phóng xạ alpha, beta và gamma có thể gây ra tác động mạnh lên môi trường và sức khỏe con người nếu tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc lâu dài với chúng.
Phóng xạ là quá trình mà hạt nhân của một nguyên tử phóng ra các hạt đơn lẻ hoặc tia phóng xạ. Các hạt này có thể bao gồm hạt alpha (hạt nhân của các nguyên tử helium), hạt beta (hạt điện tử hoặc positron) và tia gamma (tia điện từ).
Hạt alpha: Là một ion dương kép, hạt alpha bao gồm hai proton và hai neutron. Khi một nguyên tử phóng xạ phân rã và giải phóng hạt alpha, hạt nhân của nó giảm đi hai đơn vị. Do có điện tích dương, hạt alpha di chuyển trong một khoảng cách ngắn trước khi mất năng lượng và dừng lại. Điều này làm cho hạt alpha rất có hại nếu tiếp xúc trực tiếp với cơ thể con người.
Hạt beta: Hạt beta là hạt nhân của electron hoặc positron. Electron beta âm (-) là một hạt nhân năng lượng thấp, trong khi positron beta dương (+) là một hạt nhân năng lượng cao. Khi một nguyên tử phóng xạ phân rã và phát sóng hạt beta, tương ứng với một proton trong hạt nhân chuyển thành một neutron (trong trường hợp hạt beta âm) hoặc một neutron chuyển thành một proton (trong trường hợp hạt beta dương). Hạt beta có thể xuyên qua một khoảng cách lớn hơn hạt alpha và có thể gây tổn thương cho mô và tế bào nếu tiếp xúc trực tiếp.
Tia gamma: Tia gamma là tia điện từ với năng lượng cao. Nó phát ra từ nhân tử phóng xạ khi hội tụ vào trạng thái ổn định sau phóng xạ alpha hoặc beta. Tia gamma có khả năng xuyên qua nhiều chất liệu và cảm biến năng lượng của nó rất mạnh. Nếu tiếp xúc trực tiếp với tia gamma, chúng có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho mô và tế bào của cơ thể con người.
Tôi xin lỗi vì thông tin hạn chế trước đó. Dưới đây là chi tiết hơn về phóng xạ:
Phóng xạ được phân thành ba loại chính: alpha, beta và gamma, dựa trên loại hạt hoặc tia được phát ra.
1. Hạt alpha (α): Hạt alpha là hạt có kích thước lớn, gồm hai proton và hai neutron, tương đương với hạt nhân của nguyên tử helium. Bức xạ alpha thường xảy ra trong quá trình phân rã hạt nhân không ổn định, khi một nguyên tử phóng xạ sẽ giải phóng một hạt alpha. Hạt alpha có khối lượng lớn và điện tích dương mạnh, do đó chúng không được xuyên qua vật liệu tốt và chỉ có thể di chuyển trong một khoảng cách rất ngắn (chỉ vài cm trong không khí). Vì vậy, hạt alpha rất nguy hiểm nếu tiếp xúc trực tiếp với mô và tế bào trong cơ thể con người, gây tổn thương nghiêm trọng và nguyên nhân của các bệnh liên quan đến phóng xạ.
2. Hạt beta (β): Hạt beta có thể là hạt electron beta âm (-) hoặc positron beta dương (+). Khi một nguyên tử phóng xạ, sự phân rã hạt nhân gây ra quá trình chuyển đổi một neutron thành một proton (hạt beta âm) hoặc một proton thành một neutron (hạt beta dương), cùng với việc giải phóng một hạt beta. Hạt beta có khối lượng nhẹ hơn hạt alpha và không có điện tích dương mạnh, điều này làm cho chúng có khả năng thâm nhập qua vật liệu tốt hơn và di chuyển trên khoảng cách xa hơn. Hạt beta gây tác động lên mô và tế bào con người khi tiếp xúc trực tiếp, gây nguy hiểm cho sức khỏe.
3. Tia gamma: Tia gamma là các tia điện từ có tần số và năng lượng cao. Các tia gamma không có khối lượng, không có điện tích và cực kỳ nhỏ kích thước. Chúng được phát ra từ nhân tử phóng xạ trong trạng thái ổn định sau khi phóng xạ alpha hoặc beta. Tia gamma có khả năng xuyên qua vật liệu rất tốt và di chuyển trên khoảng cách xa nhất trong các loại phóng xạ. Chúng có thể gây tổn thương rất nghiêm trọng cho mô và tế bào con người khi tiếp xúc trực tiếp.
Để bảo vệ sức khỏe khỏi phóng xạ, người ta sử dụng các biện pháp bảo hộ như vật liệu chắn phóng xạ, máy tạo màn hình, bảo hộ cá nhân và hạn chế tiếp xúc với nguồn phóng xạ.
Chuyển giao điện di của protein từ gel polyacrylamide sang tấm nitrocellulose: Quy trình và một số ứng dụng. Dịch bởi AI Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 76 Số 9 - Trang 4350-4354 - 1979
Một phương pháp đã được đưa ra để chuyển giao điện di protein từ gel polyacrylamide sang tấm nitrocellulose. Phương pháp này cho phép chuyển giao định lượng protein ribosome từ gel có chứa ure. Đối với gel natri dodecyl sulfate, mô hình ban đầu của dải vẫn giữ nguyên mà không mất độ phân giải, nhưng việc chuyển giao không hoàn toàn định lượng. Phương pháp này cho phép phát hiện protein bằn...... hiện toàn bộ #chuyển giao điện di #protein ribosome #gel polyacrylamide #nitrocellulose #ure #natri dodecyl sulfate #chụp ảnh phóng xạ tự động #miễn dịch học #kháng thể đặc hiệu #detection #peroxidase #phân tích protein.
Các thang đo tầm soát ngắn nhằm giám sát mức độ phổ biến và xu hướng của các căng thẳng tâm lý không đặc hiệu Dịch bởi AI Psychological Medicine - Tập 32 Số 6 - Trang 959-976 - 2002
Bối cảnh. Một thang đo sàng lọc 10 câu hỏi về căng thẳng tâm lý và một thang đo dạng ngắn gồm sáu câu hỏi nằm trong thang đo 10 câu hỏi đã được phát triển cho Cuộc Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia của Hoa Kỳ (NHIS) được thiết kế lại.Phương pháp. Các câu hỏi thí điểm ban đầu đã được thực hiện trong một cuộc khảo sát qua thư toàn...... hiện toàn bộ #Thang đo sàng lọc #căng thẳng tâm lý không đặc hiệu #thang đo K10 #thang đo K6 #Cuộc Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia #các thuộc tính tâm lý #các mẫu dân số học xã hội #rối loạn DSM-IV/SCID #các cuộc Khảo sát Sức khỏe Tâm thần Thế giới WHO.
Phân Tích Bayesian Về Ngày Đo Carbon Phóng Xạ Dịch bởi AI Radiocarbon - Tập 51 Số 1 - Trang 337-360 - 2009
Nếu muốn sử dụng các phép đo carbon phóng xạ cho mục đích niên đại, chúng ta cần phải áp dụng các phương pháp thống kê để hiệu chỉnh. Phương pháp hiệu chỉnh được sử dụng phổ biến nhất có thể coi như một ứng dụng đơn giản của thống kê Bayesian, sử dụng cả thông tin từ phép đo mới và thông tin từ đường cong hiệu chỉnh 14C. Tuy nhiên, trong hầu hết các ứng dụng niên đại, ...... hiện toàn bộ CALIBRASI TUỔI PHÓNG XẠ CARBON INTCAL98, 24.000–0 cal BP Dịch bởi AI Radiocarbon - Tập 40 Số 3 - Trang 1041-1083 - 1998
Tập trung của bài báo này là việc chuyển đổi độ tuổi phóng xạ carbon sang độ tuổi đã hiệu chỉnh (cal) cho khoảng thời gian 24.000–0 cal BP (Trước Hiện tại, 0 cal BP = năm 1950 CN), dựa trên một tập hợp mẫu gồm các vòng cây được xác định tuổi bằng phương pháp dendrochronology, san hô được xác định tuổi bằng phương pháp urani-thori, và trầm tích biển được xác định theo số lớp. Thông tin về t...... hiện toàn bộ Các đường cong chuẩn hóa tuổi carbon phóng xạ IntCal09 và Marine09, 0–50.000 năm cal BP Dịch bởi AI Radiocarbon - Tập 51 Số 4 - Trang 1111-1150 - 2009
Các đường cong chuẩn hóa carbon phóng xạ IntCal04 và Marine04 đã được cập nhật từ 12 cal kBP (cal kBP được định nghĩa là hàng ngàn năm đã được chuẩn hóa trước năm 1950), và được mở rộng đến 50 cal kBP, sử dụng các tập dữ liệu mới có sẵn đáp ứng tiêu chuẩn của Nhóm Công tác IntCal cho san hô nguyên vẹn và các hợp chất carbonat khác cũng như cho việc định lượng độ không chắc chắn trong cả th...... hiện toàn bộ Hiệu chỉnh Carbon phóng xạ và Phân tích Địa tầng: Chương trình OxCal Dịch bởi AI Radiocarbon - Tập 37 Số 2 - Trang 425-430 - 1995
Con người thường nghiên cứu các niên biểu của các địa điểm khảo cổ và các chuỗi địa chất bằng nhiều loại chứng cứ khác nhau, xem xét các ngày đã hiệu chỉnh bằng carbon phóng xạ, các phương pháp xác định niên đại khác và thông tin địa tầng. Nhiều nghiên cứu trường hợp riêng lẻ chứng minh giá trị của việc sử dụng các phương pháp thống kê để kết hợp các loại thông tin khác nhau này. Tôi đã ph...... hiện toàn bộ #hiệu chỉnh carbon phóng xạ #phân tích địa tầng #chương trình OxCal #thống kê Bayes #lấy mẫu Gibbs
Xác thực các bài kiểm tra giải trình tự thế hệ tiếp theo metagenomic cho việc phát hiện bệnh nhân toàn cầu Dịch bởi AI Archives of Pathology and Laboratory Medicine - Tập 141 Số 6 - Trang 776-786 - 2017
Ngữ cảnh.—
Giải trình tự metagenomic có thể được sử dụng để phát hiện bất kỳ tác nhân gây bệnh nào bằng cách sử dụng giải trình tự thế hệ tiếp theo (NGS) không thiên lệch, không cần khuếch đại cụ thể cho trình tự. Bằng chứng khái niệm đã được chứng minh trong các ổ dịch bệnh truyền nhiễm không rõ nguyên nhân và ở những...... hiện toàn bộ #Giải trình tự metagenomic #phát hiện tác nhân gây bệnh #xét nghiệm NGS #bệnh truyền nhiễm #phòng thí nghiệm lâm sàng.